Hàng năm khi những ngày đông ảm đạm giá rét trôi qua, bầu trời lại được
sưởi ấm và trên những cành cây trụi lá đã nẩy lộc đơm hoa, lòng người
theo đó cũng hớn hở đón xuân với bao niềm ước vọng. Trong khung cảnh
minh niên đầy hân hoan, lòng người con Phật lại thành kính hướng về Tam
bảo để cầu nguyện.
Quá nhiều lo lắng, nên nhiều người đến các cơ sở tín ngưỡng để cầu an.
Trong đời sống không
ai không khỏi bất an trước bao nỗi lo toan phiền muộn, nên cầu an là
điều ai cũng đều mong ước. Người ta cầu nguyện bằng nhiều cách, tùy ở
niềm tin và nhận thức.
Nếu ai chưa thấm
nhuần Chánh pháp, thì họ đi khấn vái am này đền nọ, hoặc cúng sao giải
hạn đầu năm. Người thấm nhuần Chánh pháp không cho lối cầu nguyện ấy là
thích đáng, là lợi lạc viên mãn. Người Phật tử nghĩ rằng: Duy chỉ đem
tâm thành kính thanh tịnh trang nghiêm trì tụng kinh chú trước ngôi Tam
bảo và vâng lời Phật dạy làm những việc ích mình lợi người, bố thí phóng
sanh để cầu cho thế giới hòa bình chúng sanh an lạc, thì sự cầu nguyện
ấy mới đúng với Chánh pháp.
Sự an hay bất
an được thể hiện ở trên hai lãnh vực là thân và tâm. Khi thân bị bệnh,
bị đói khát, rét mướt, tai nạn, tật nguyền, bị tra tấn đánh đập v.v… đó
là những bất an của thân. Khi tâm sầu muộn, bi ai, âu lo, sợ sệt, ân hận
hay uất hận, giận hờn, bị các phiền não của tham, sân, si chi phối đó
những mối bất an của tâm.
Ở đời cũng có
những hạng người sống hời hợt, chỉ biết tìm cầu sự an lành ở thể chất
qua sự đáp ứng cho những đòi hỏi như: ăn ngon, mặc đẹp, lắm của nhiều
tiền, mong cho tai qua nạn khỏi, công thành danh toại, chứ ít khi nghĩ
đến sự an lành cho tâm hồn, nên họ thường thản nhiên để cho tham tâm
khởi, si tâm, kiêu căng, ngã mạn khởi. Kết quả họ là phải chuốc lấy
nhiều phiền muộn, ray rứt ân hận đè nặng lên tâm thức hằng ngày, hằng
giờ, từng phút, từng giây không bao giờ nguôi.
Trong
mối tương quan tương duyên giữa thân và tâm quyện vào nhau thì những
nỗi bất an hoặc sự an lành của thân và tâm khó mà trình bày một cách
tách bạch. Hơn nữa, vấn đề cảm nhận còn tùy vào nhận thức và khả năng tu
tập.
Trình bày một cách giản lược, thì sự bất an và an lành được tác động trên hai lãnh vực là bên ngoài và chính tự trong ta.
Những
cái bất an đau khổ từ bên ngoài đưa đến, đó là sự bất an của hoàn cảnh,
như bị tai nạn, bị đánh đập, tai trời vạ người. Muốn tránh, ta phải có
những hành động thích ứng để đem lại an lành. Nếu bị bất an do đói rét,
ta phải tìm công ăn việc làm, phải cần mẫn, làm việc có phương pháp để
đem lại cơm no áo ấm. Khi thân nhuốm bệnh, ta phải điều trị, uống thuốc,
biết đi dưỡng và đề phòng.
Còn sự bất an
chính tự trong ta là những sầu, bi, khổ, ưu, não. Muốn tránh những bất
an ấy, ta phải trì tụng kinh chú, tức là trau giồi tâm ta bằng cách tu
tâm dưỡng tánh, thực hành theo giáo lý của Đức Phật dạy. Như đau khổ vì
tham tâm, ta cố gắng tu pháp môn bố thí. Quán rõ thật tướng của vạn pháp
là vô thường, khổ, vô ngã cho lòng tham lắng xuống. Khi sân làm ta đau
khổ, thì phải tu pháp quán từ bi, tu pháp nhẫn nhục, để đập tan ngọn lửa
sân hận đang hừng hực đốt cháy từ tâm của ta. Nếu đau khổ vì si mê tật
đố, ta phải tu pháp quán nhân duyên, để nhận thức rõ ràng tất cả sự vật
đều do nhân duyên giả hợp, là trống rỗng, là hư dối, chứ không phải là
chắc chắn như ta tưởng. Khi đã quán rõ được các pháp như vậy, thì tự
nhiên tâm bỉ thử, tật đố lắng xuống nhường chỗ cho một nhận thức rộng
rãi hơn, sáng suốt hơn, không bị cái bỉ thử, tham lam chấp thủ làm điên
đảo.
Giải trừ được sự tác động của tham, sân, si trong tâm, đó là cách cầu an làm cho tâm hồn nhẹ nhàng trong sáng.
Ngài Thần Quang đến cầu xin Tổ Bồ-đề-đạt-ma an tâm cho mình, cũng chính vì lẽ này.
Thần
Quang là một cao tăng Trung Hoa, sau khi mệt nhọc lặn lội tìm đến gặp
Tổ Bồ-đề-đạt-ma đang ngồi lặng nhìn vách tại chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn,
ân cần tha thiết van xin Tổ giải thoát nổi thống khổ ray rứt của lòng
mình, nhưng Tổ vẫn yên lặng, lầm lì thản nhiên một cách tàn nhẫn. Thần
Quang không nản chí, đứng suốt đêm giữa tuyết với đôi mắt long lanh,
hoài vọng. Tổ cảm thấy động lòng, liền hỏi:
– Ngươi đến đây để cầu việc gì?
Thần Quang rưng rưng nước mắt vội thưa:
– Bạch Thầy, tâm con không an, xin Thầy an tâm cho.
– Người hãy đem tâm ngươi ra đây, ta an cho.
Thần Quang sửng sốt một hồi lâu, rồi thưa tiếp:
– Bạch Thầy, con kiếm tâm mà chẳng thấy đâu cả.
Tổ đáp:
Đó, ta đã an tâm cho người rồi đó (Vô môn quan).
Đây
là một cách an tâm thâm thúy nhất trong muôn vàn cách an tâm mà Đức
Phật đã dạy, được ghi lại thành văn và không thành văn. Nếu ai có một
tâm hồn tha thiết cầu an tâm và biết tiếp thu thấu đáo pháp an tâm của
Đức Phật thì chắc chắn cũng được an tâm như ngài Thần Quang.
Vậy
vấn đề cầu an không phải chỉ một mực cầu an thân mà bỏ mất sự cầu an
nơi tâm hồn. Nếu thân không có tâm thì đó là một đống thịt, một xác
chết. Cho nên, thể xác được an lạc khi có sự cảm nhận ấy của tâm thức,
và cấp độ an lạc cũng tùy thuộc vào sức mạnh của tâm thức. Như có người
dù bệnh nhẹ, nhưng tâm hồn yếu đuối, khiếp nhược thì nỗi khổ đau của cơn
bệnh sẽ tăng gấp bội. Và ngược lại, người bị bệnh nặng, nhưng với tâm
thức bình tĩnh sáng suốt, có ý chí vững mạnh, không giải đải buông xuôi,
thì nỗi khổ đau của cơn bệnh cũng được giảm thiểu. Với sức mạnh của tâm
hồn, tức là tâm an lạc, có tác động làm vơi đi những khổ đau ở thân
xác.
Ở đời thường có hai hạng người sống
theo hai lối sống thái quá: – Có hạng chỉ chú trọng cưng dưỡng thân xác,
tạo an lạc cho thân xác bằng sự thỏa mãn những ham muốn nhục dục. Lại
có hạng quá khổ hạnh bằng sự tiết chế tất cả những nhu cầu tối thiểu và
tự hành hạ thân xác. Đó chỉ là những lối sống không trung đạo, thiếu cân
bằng mà ngày xưa Đức Thế Tôn đã từ bỏ và cấm các đệ tử thực hành.
Trong bài pháp Tứ đế đầu tiên cho năm vị Tỷ-kheo, câu mở đầu Ngài dạy rằng:
Có hai thái cực cần phải tránh xa:
– Thái cực thứ nhất là sống xa hoa trụy lạc vật dục, đó là lối sống thấp hèn, không đưa đến giải thoát, cần phải tránh.
–
Thái cực thứ hai là sống ép xác khổ hạnh, nhịn ăn nhịn mặc, chịu đói
chịu rét, đứng giữa trời, nóng lạnh hành hạ, thì đó cũng là lối sống tà
vạy không đưa đến giải thoát, cần phải tránh.
Đức
Phật khuyên cần phải tránh xa hai lối sống ấy để tu hành mới đưa đến
giải thoát. Như vậy Ngài không phủ nhận đời sống về thể xác, nhưng Ngài
cũng không tán dương cái lối sống tham đắm vật chất, chỉ biết chú trọng
đến thân mà không chú trọng đến tâm. Lời dạy của Đức Phật nhắc nhở cho
tất cả ai muốn đi trên con đường an lạc, thì trước nhất phải có lối sống
quân bình, chứ không phải bỏ ăn, bỏ làm, ghét bỏ của cải hoặc phung phí
của cải, nhưng phải biết sống không say mê vật chất, không say mê theo
đời sống dục lạc, xa hoa, không tìm hạnh phúc, không chôn vùi cuộc đời
vào cần sa thuốc phiện, chén rượu sòng bạc. Đức Phật đã bỏ quốc thành,
thê tử đi xuất gia là dạy cho chúng ta bài học đó. Nhiều tiền chưa hẳn
có hạnh phúc, chức trọng quyền cao chưa chắc có hạnh phúc. Các yếu tố
vật chất chỉ là những phần phụ thuộc, còn cái hạnh phúc chân thật bao
giờ cũng chính là trong lòng chúng ta.
Giảm bớt tham, sân, si là cách để an tâm hiệu quả nhất.
Khi
lòng ta khởi tham lam do bị tiền của chi phối, bị quyền lợi danh vọng
chi phối, thì tấm lòng của ta trở nên hẹp hòi ích kỷ, khi đã ích kỷ thì
nó không thể trải rộng để hứng lấy những hạnh phúc cao thượng, chân thật
được. Bởi vậy, trên bước đường tu tập cầu giải thoát an lạc, người Phật
tử phải chú trọng tu tập cả hai mặt thể xác lẫn tâm hồn. Với thể xác
luôn luôn phải biết tri túc, cần có cơm đủ no, mặc đủ ấm, cần đủ những
tiện nghi tối thiểu mà không nên hưởng thụ tham đắm vật chất tức là phải
sống quân bình không để rơi vào hai thái cực như Phật đã dạy. – Với
tinh thần, phải giữ cho tâm hồn luôn luôn được trong sáng, được rộng
rãi. Người Phật tử càng biết mở rộng từ bi tâm, càng diệt trừ được chấp
thủ, tham ái thì càng có hạnh phúc chân thật. Khi tâm hồn không trong
sáng nhiều tham đắm thì dù ở trên vàng trên bạc họ vẫn không cho là đủ,
vì còn mong cầu là còn khổ. Hạnh phúc chỉ đến với những tâm hồn biết
tiết chế, có đạo đức cao cả, có tu tập theo giáo pháp Đức Phật, sống
trong sáng, hướng thiện, sống vô tham, biết đủ như trong kinh Di Giáo đã
dạy: “Người nhiều ham muốn, nhiều tham cầu lợi dưỡng nên khổ não cũng
nhiều. Người biết đủ tuy nằm dưới đất mà vẫn lấy làm an vui, người không
biết đủ, dù ở thiên đường vẫn không vừa ý”.
Chúng
ta nhìn lên gương chư Tổ đức, quý ngài có đời sống vật chất rất đơn sơ,
đạm bạc, thế mà tâm hồn quý ngài rất tự tại, rất khoan khoái, rất an
nhiên vui vẻ. Không hề thoáng những nét cau có, giận hờn hoặc buồn rầu.
Vì sao như vậy? Bởi vì tâm hồn của quý ngài đã lướt trên tất cả những
tầm thường của đời sống thế gian, đời sống của tham lam ích kỷ. Quý ngài
đã làm chủ được tâm, điều phục được tâm, để tâm không bị chi phối bởi
ngoại cảnh, bởi tham, sân, si, nên đối trước hoàn cảnh nào quý ngài vẫn
tự tại an vui. Đúng là “Tâm bình thế giới bình, tâm xuân vũ trụ xuân”.
Cho
nên Phật đã dạy: “Tự tại với tâm, tự tại với pháp”. Thường chúng ta chỉ
đi tìm sự an bình trong thế giới hiện tượng, tìm nguồn vui trong vũ trụ
vật chất luôn chuyển biến vô thường, nên chúng ta chỉ nắm bắt được
những bào ảnh an lạc. Và chính cái lạc ấy lại là nhân của cái khổ, nhân
quả quả nhân, mãi vận hành, trong quá trình sinh tử.
Có một hôm, Đức Thế Tôn ngồi một mình trên đám cỏ, một người đi qua thấy vậy liền hỏi:
– Sa-môn Cù-đàm có sầu muộn hay sao mà ngồi một mình cô độc thế?
Đức Phật trả lời:
– Ta mất gì mà Ta sầu muộn?
Ông ta lại hỏi:
– Nếu không sầu muộn thì chắc là Ngài hoan hỷ, mà hoan hỷ thì sao lại ngồi cô độc một mình?
Ngài lại trả lời:
– Ta được gì mà Ta hoan hỷ?
Người đó ngạc nhiên hỏi lại:
– Không sầu muộn thì hoan hỷ, không hoan hỷ thì sầu muộn. Ngài không hoan hỷ, không sầu muộn là nghĩa làm sao?
Ngài trả lời rằng:
- Hoan
hỷ chỉ đến với người có tâm sầu muộn, sầu muộn chỉ đến với người có tâm
hoan hỷ. Ta đã dứt bỏ nguồn gốc của sầu muộn rồi, cho nên Ta không sầu
muộn, cũng không hoan hỷ. Tâm ta không dao động.
Qua
lời dạy ngắn gọn, nhưng hàm chứa một ý nghĩa thâm sâu vô cùng, giúp ta
soi rọi vào thực tế cuộc đời để thấy rằng: hoan hỷ là điều người đời
mong muốn, và chỉ đạt sự mong muốn qua sự nắm bắt, chấp thủ, như mong
cho được trúng số độc đắc, mong sự ước muốn tìm cầu của cải vật chất,
như vậy thì cái hoan hỷ đó là những hoan hỷ đi đến với người có tâm
thiếu thốn và sầu muộn, và sau hoan hỷ đó chắc chắn là những sầu muộn âu
lo của mất mát. Như người vừa trúng số thì sung sướng vô cùng nhưng
liền sau đó không khỏi lo sợ bà con biết sẽ đến xin, đến mượn, hoặc bị
mất, hoặc bị cháu con tranh giành làm mất hòa khí gia đình. Nếu cố giấu
không cho ai biết thì cũng phập phồng sợ người ta biết.
Tham
cầu là một nỗi khổ, khi thành đạt là một sự hoan hỷ, rồi mất mát lại là
một nỗi khổ. Sầu muộn rồi hoan hỷ, hoan hỷ rồi sầu muộn cứ nối đuôi
nhau mãi.
Có người đang cồn cào vì cơn đói,
đang khổ vì đói, nếu ai đem cho ổ bánh mì thì họ rất sung sướng, rất
hoan hỷ. Thế là hoan hỷ đi đến với người có tâm sầu muộn.
Có
người trong ngày Tết mặc chiếc áo đẹp, đang hoan hỷ trong chiếc áo đẹp,
bỗng bị một kẻ tinh nghịch ném pháo làm áo bị rách, loang lỗ làm người
ấy tức tối, sầu muộn, như vậy là sầu muộn đi đôi với người có tâm hồn
hoan hỷ.
Cuộc đời chúng ta cứ mãi diễn đi
diễn lại, hoan hỷ rồi sầu muộn; sầu muộn rồi hoan hỷ. Ngày qua tháng
lại. Suốt cả cuộc đời mãi loanh quanh ở trong cái vòng, cái tâm lượng
của chúng sanh phân biệt, so đo nhơn ngã mà có như thế.
Đức
Phật, Ngài đã dứt hết nguồn gốc chấp thủ, tức là diệt hết nguồn gốc của
khổ đau. Ngài luôn hoan hỷ, một sự hoan hỷ không tạo nên bằng tiền tài
danh vọng, chức quyền mà là một sự hoan hỷ đã dứt sạch nguồn gốc khổ
đau, tức dứt sạch vô minh, tham ái, chấp thủ. Bởi vậy, Ngài dạy: “Ta
không hoan hỷ cũng không sầu muộn”. Nhưng chính cái không hoan hỷ không
sầu muộn trong đối đãi ấy, mới là một sự hoan hỷ không thể diễn đạt bằng
cái quan niệm so sánh, bỉ thử của nhị nguyên, của người trúng số đầy
mong cầu và tham đắm.
Cái hoan hỷ của Đức
Phật được tạo nên bằng trí giác ngộ, bằng tâm từ bi, lòng hỷ xả, đó là
sự hoan hỷ vi diệu, vĩnh cửu. Một sự hoan hỷ phát xuất từ nội tâm của
một người tu tập đã tự tại với nguồn tâm. Đó là sự hoan hỷ không bị ai
cướp mất vì không phải giành của ai mà có được, nhưng lại ban bố cho tất
cả.
Cho nên, hễ học Phật, chúng ta cố gắng
xây dựng niềm hoan hỷ, an lạc bằng những công phu tu tập, trưởng dưỡng
từ bi, khơi sáng nguồn tri giác, thì sự hoan hỷ an lạc đó đằng sau không
nhuốm bóng dáng sầu muộn, sợ hãi.
Người có
tu tập là người hiểu biết tâm, khi tham tâm khởi, sân tâm khởi, tâm
kiêu mạn khởi, v.v… thì phải điều phục tâm, chế ngự tâm để trở thành tự
tại, tâm giải thoát. Được thế, thì trước bất cứ một hoàn cảnh nào cũng
được tĩnh giác, tâm không bị chi phối. Đã thế, ta lại còn chủ động, biết
sử dụng mọi phương tiện, mọi đối cảnh, để phục vụ những mục đích cao
đẹp. Làm chủ được đời sống cả vật chất lẫn tinh thần là cách sống an
lạc, tự tại giải thoát.
Là người Phật tử
còn sống trong tương quan giữa cuộc đời, chúng ta cần phải có tiền, cần
có cơm ăn, áo mặc, cần có mọi tiện nghi cần thiết trong cuộc sống. Song
cũng phải cần có từ bi hỷ xả, cần có trí tuệ, có bố thí, trì giới v.v…
Thực
hiện lời Phật dạy để xây dựng bản thân và xã hội tốt đẹp là cách cầu an
đầu năm thiết thực nhất, đem lại an lạc cho nhiều đời, hiện tại cũng
như tương lai.
Chúng ta tụng kinh, lạy Phật cũng chỉ với mục đích trưởng dưỡng thiện tâm và tiến dần đến giải thoát tâm vậy.
HT.Thích Thiện Siêu