Vô thường nghĩa là vạn vật luôn thay đổi và con
người là vô ngã...
Nói đến vô thường, gần như tất cả mọi người đều cảm thấy muốn buông xuôi
tất cả, vì vô thường thì nỗ lực làm gì cho mất công. Nghe vô thường,
chúng ta cảm thấy cuộc đời có rồi không, luôn thay đổi từ khi con người
sinh ra rồi già, bệnh, chết; nói cách khác, chúng ta chưa có trước khi
xuất hiện trên cuộc đời và khi từ giã cuộc đời, chúng ta cũng là không.
Vì vậy, một số người nói đạo Phật chán đời.
Hôm nay chúng ta suy nghĩ
về vô thường. Giáo lý Phật tuy nhiều, nhưng chủ yếu nằm trong vô thường, nghĩa
là vạn vật luôn thay đổi và con người là vô ngã, tức con người do tứ đại hợp
thành, không có thật.Giáo lý vô thường và vô ngã mà Phật dạy để làm gì? Điều này
có mục tiêu rõ ràng, Đức Phật nói vô thường và vô ngã để giúp chúng ta tận diệt
khổ đau và đạt Niết bàn. Từ vô thường, chúng ta tìm cái thường còn, từ khổ đau,
chúng ta tìm cái an lạc là Niết bàn có thường, lạc, ngã và tịnh.
Đức Phật sống trên cuộc đời có vô thường, nên Ngài phải nói
vô thường để chúng ta đừng chấp mọi vật là thường còn mà đau khổ. Phật dạy vật
chất luôn thay đổi để chúng ta đoạn diệt tâm chấp trước, mới có thế giới an lạc
là Niết bàn. Thật vậy, đầu tiên Phật thuyết vô thường vô ngã cho năm anh em
Kiều Trần Như và họ đắc quả A la hán. Từ đó, họ hiện hữu trên cuộc đời này mà
không bị tham lam, ganh tỵ chi phối, nên họ luôn an lạc, mới làm cho người chấp
thường thấy vậy mà thức tỉnh và phát tâm tu theo. Điển hình là Xá Lợi Phất thấy
sự vật là thường, nhưng bị mất mát, nên đau khổ; nhưng nhờ gặp được Mã Thắng
sống với chơn thường và an lạc, Ngài mới thấy cuộc đời vô thường mà đoạn diệt
khổ đau và chứng được chơn thường. Như vậy, Phật dạy vô thường để chúng ta nhận
thức đúng đắn bản chất của sự vật mà chứng được chơn thường.
Mọi vật có hai phần là sanh diệt và vô sanh. Phật dạy thế
giới này là khổ và nguyên nhân của khổ; đó thuộc về phần sanh diệt. Để đoạn trừ khổ và nguyên
nhân của khổ, Phật dạy tu Đạo đế là 37 trợ đạo phẩm, thì chứng được Niết bàn là
Diệt đế; nhưng không biết lại nói đạo Phật chán đời là sai lầm lớn của con
người.
Phật dạy cuộc đời thế nào thì phải thấy đúng và sống đúng để
đoạn trừ ảo giác. Vì chúng ta có tham vọng, mới có ảo giác là không thực tế mới
bị đau khổ. Còn thấy cuộc đời đúng sự thật và biết nguyên nhân nào dẫn đến đau
khổ, thì khổ phải chấm dứt và tu nguyên nhân dẫn đến an lạc thì Niết bàn hiện
hữu. Phật dạy rõ hai con đường như vậy.
Ở thế giới sinh diệt mà chúng ta muốn không sinh diệt làm sao
được. Con người sanh ra, lớn lên, già, rồi chết là quy luật tất yếu, mà chúng
ta muốn không già, không chết và sống mãi là không thực tế. Mà nếu con người
sống mãi thì trái đất này sẽ bị nạn nhân mãn mất. Bây giờ người chết ít hơn
người sanh, người ta còn phải mong cho chết bớt để trái đất này còn tồn tại.
Thời Phật tại thế, trái đất này chỉ có độ 500 triệu dân, nhưng nay 7 tỷ người,
thì quý vị nghĩ sao. Nếu không có người chết, ngày nay trái đất này có bao
nhiêu người.
Có quy luật sanh, già, bệnh, chết, trái đất mới trở thành cân
bằng và tồn tại được. Có sanh mà không chết là nghĩ đến thiên đường, nhưng như
vậy cũng bị nạn nhân mãn, không còn chỗ chứa người ta. Quan niệm lên thiên
đường hưởng phước luôn cũng không đúng. Thiên đường cũng có tuổi thọ của nó,
nhưng dài hơn thế gian. Ở thiên đường, đất rộng người thưa, vì chỉ có loài
người tu được thập thiện mới được sinh lên thiên đường, nên cũng khó có người
được lên thiên đường. Thật vậy, chúng ta thọ thập thiện, nhưng tu thập thiện
không dễ. 1.000 người tu thập thiện may ra có được 1 người thành tựu.
Nói rằng thiên đường đất rộng, nhưng thật ra không có đất, họ
sống bằng tâm thức, không có thân vật chất như chúng ta, nhưng có thân vi tế.
Pháp hội Linh Sơn có vài ngàn Tỳ kheo đã không có đủ chỗ ngồi, nhưng có đến
70.000 chư Thiên và 8 vạn Bồ tát mà không trở ngại. Thế giới của chư Thiên,
Phật, Bồ tát khác với thế giới của chúng ta, vì đó là thế giới siêu vật chất,
tức một vật thể nhỏ, nhưng có sức dung chứa vô cùng tận. Ngày nay điều này dễ hiểu, ví như người ta dùng
phần mềm dung chứa biết bao nhiêu hình ảnh và âm thanh không lẫn lộn.
Chúng ta hình dung được thế giới chư Thiên có lạc, không khổ.
Hết phước thì hoa trên đầu héo là chư Thiên bị đọa, hay ở đó chỉ vui, nhưng
thấy buồn là đọa. Ở thế giới chư Thiên sung sướng, nên quên hết trần thế, nhưng
khởi niệm nhớ con là đọa liền, rơi xuống trần thế, thọ sanh vào các loài chỉ
với một ý niệm như vậy.
Ta chiêm nghiệm ý nghĩa vô thường mà Phật dạy thấy rõ sự thật
rằng vạn vật biến đổi, hay gọi là tiến hóa, từng thế hệ luôn phát triển. Đời
sống từ Phật tại thế cho đến ngày nay, nếu không có tiến hóa thì con kiến vẫn
là con kiến. Từ thời Phật giáo Nguyên thủy cho đến thời Phật giáo phát triển
cũng nhờ vô thường, tức hoàn cảnh đổi khác mà chúng ta có nhận thức khác, là có
sự tiến hóa về vật chất và tiến hóa về tâm linh. Tiến hóa vật chất là từ cuộc
sống đơn sơ của người cổ đại đã tiến lên cuộc sống văn minh hiện đại. Tiến hóa
tâm linh là người khổ đau tu Tứ thánh đế thì diệt được khổ đau và đắc quả Tu đà
hoàn, cho đến quả A la hán, Bích Chi Phật và thành tựu quả vị Phật. Nếu không
có vô thường thì tất cả mọi việc nằm yên, không thay đổi. Nhờ vô thường, chúng
ta tích cực hơn, vận dụng được sự phát triển, giúp cho đời sống thăng hoa và
tiến hóa.
Riêng tôi, từ
thuở nhỏ, đã cảm nhận ý niệm vô thường, thấy mạng người ngắn ngủi, nên 12 tuổi
đã nỗ lực tu học, sợ không kịp rồi chết, không biết về đâu. Tôi phấn đấu tìm
đạo và tu học không mệt mỏi, nên thăng hoa đời sống tâm linh. Nhờ vô thường, có
tiến hóa nên tôi lần thay đổi từ đứa trẻ nhỏ cho đến trưởng thành và tốt nghiệp
việc học để giúp đời. Chúng ta biết thay đổi theo hướng tốt đẹp là sống theo
Đạo đế của Phật dạy thì phát triển được đời sống vật chất và tâm linh. Còn thấy
vô thường rồi chán nản buông xuôi thì về đâu không biết.
Biết vô thường, chúng ta cũng hạn chế được các việc
ác và phát triển được mặt thiện. Sự thay đổi cũng có hai khuynh hướng, một là
phát triển vật chất, đó là công việc của các nhà khoa học nhắm đến phát minh
vật chất. Hai là những nhà triết học, nhà tôn giáo tìm về sự phát triển đời
sống tâm linh. Đương nhiên chúng ta không phủ nhận đời sống phát triển vật
chất, nhưng không coi nó quan trọng, vì nhận thấy đời sống vật chất ràng buộc
chúng ta nhiều hơn. Thật vậy, người có nhiều của cải, quyền lợi thì bị ràng
buộc nhiều. Phật tu là thoát ngục vàng. Hạnh phúc không phải ở đời sống vật
chất. Một người giàu có đến than với tôi rằng ông có một người con trai duy
nhất bị nhiễm HIV, vì cho nó tiêu xài phung phí quá nên mới bị như vậy. Ông khổ
quá, tiền nhiều, nhưng không thể để tài sản cho đứa con hư này được. Đời
sống vật chất giúp chúng ta một phần, nhưng gây buồn khổ nhiều hơn. Người nhiều
tiền luôn luôn lo lắng cho việc giữ gìn tài sản. Phật dạy rằng tài sản chưa có
thì mong cho được, có rồi thì giữ gìn càng khổ và mất tài sản thì khổ nhiều hơn
nữa.
Phật dạy vật chất không cần nhiều như chúng ta tưởng, mà cần
vật chất nó lại đưa đến bất hạnh, không cần nó lại hạnh phúc. Ví dụ trời nóng
bức, người có nhà cửa, tiện nghi vật chất tốt, nhưng hết phước thì họ khổ hơn
người chưa có cuộc sống tiện nghi. Vì vậy, Phật dạy tu hành phấn đấu cho đạt
được giải thoát, tức không bị lệ thuộc đói, khát, nóng, lạnh. Về vật chất có
ăn, mặc, ở, nhưng tu hành, tập cho mức cầu luôn dưới mức cung là có hạnh phúc
liền. Giả sử trưa nay không có gì ăn, thì người ta cho gì mình ăn cũng thấy
ngon; còn cầu lớn, muốn ăn tiệc thì không được như vậy là khổ, hay dù có ăn
cũng phải trả nhiều bằng phước. Tôi sợ đi trai tăng, vì ăn không bao nhiêu,
nhưng trả quá nhiều, vì trả bằng phước đức tu hành của mình. Tôi thường hỏi bữa
ăn tốn bao nhiêu, phần ăn, phần bỏ, tất cả chi phí này phải gánh, nên phước mau
hết, khổ phải tới.
Tu hành, Phật dạy ít ăn, hay ăn gì cũng được. Phật có lưỡi
công đức khác với các loài chúng sinh có lưỡi nghiệp chướng thì dùng nó để nói
điều tội lỗi, dùng nó để ăn những thức ăn tốn tiền. Lưỡi công đức thì ăn gì
cũng biến thành cam lồ. Riêng tôi phát hiện ra khi đói, cơ thể nạp vào cái gì
cũng thấy ngon. Câu chuyện ông vua ăn mầm đá cho thấy lý này. Ông ăn nhiều quá
nên thấy cái gì cũng không còn ngon, nhưng gặp nhà sư cho vắt cơm nguội với
muối mà thấy ngon vì phải chờ nhà sư dọn món mầm đá lâu quá, nên đói bụng. Lưỡi
nghiệp của chúng ta đòi hỏi nhiều, nên cố tìm hoài thức ăn ngon mà không thấy
có gì ngon.
Muốn có lưỡi công đức, nên ăn thiếu, đừng ăn dư. Sức tôi ăn
được 2 chén cơm, thì tôi chỉ ăn 1 chén rưỡi. Ăn thiếu thì thấy ngon, ăn nhiều
thì không còn ngon. Hạn chế được sự chi phối của vật chất là ăn uống rồi, chúng
ta cũng hạn chế ngủ nghỉ, vì cơ thể mệt mới ngủ say; nhưng không mệt thì ngủ ít
và tỉnh là ngồi thiền giữ cho cơ thể thăng bằng. Thiền sư ăn ít, ngủ ít, lao
động bớt lần, không bị vật chất chi phối, mới phát triển được tâm linh.
Người tu không phát huy vật chất, nhưng phát triển tâm linh
để thấy cuộc đời sáng hơn, thấy cái nào khổ, cái nào không khổ, còn sự vật thì
luôn thay đổi. Đạo hữu Võ Đình Cường để lại tác phẩm Thử hòa điệu sống rất hay: “Ngồi trên thuyền thời gian, ta rong chơi trong biển không gian…”.
Thời gian luôn thay đổi, lúc còn nhỏ, ta nghĩ đến việc của người nhỏ, lúc lớn
ta nghĩ việc của người lớn, lúc già ta nghĩ đến tuổi già. “Sóng triều bào ảnh
lô nhô không phải không đẹp với người đạo sĩ…”. Nhờ có sự thay đổi mới thấy
cuộc đời này đẹp, thấy đứa trẻ chào đời rất đẹp và thấy đám ma cũng đẹp. Nếu
cuộc đời là một bức tranh không thay đổi là bức tranh chết hay sao. Chúng ta có
bức tranh sống mà tất cả hình ảnh được minh họa trong đó. “Chúng chỉ đáng ghét
đối với những kẻ tham lam…”, vì chúng ta muốn nó dừng lại, nhưng sao dừng được,
hoặc chúng ta muốn dừng cho người, nhưng không dừng cho mình, tất cả mọi người
chết, một mình ta sống, như vậy là tham quá.
Trong phẩm Nhà lửa thứ ba, kinh Pháp Hoa, Phật nói mọi
vật luôn sinh diệt, biến đổi không ngừng, nhưng nhờ đi 3 xe chạy ra khỏi Nhà
lửa thì đời sống vật chất của chúng ta ra khỏi Nhà lửa, tức nhận ra được cái gì
của ta thì ta giữ, cái gì không phải của ta thì thôi. Người ta khổ vì tham lam
tìm cầu mong muốn nắm giữ cái không phải của ta, nên mất mới khổ đau. Cái gì
của ta, ta giữ và tiến hơn nữa, của ta cũng không cần giữ, nhưng nó cũng phải
theo ta như bóng với hình. Một người bạn tốt của ta, ta không giữ, họ vẫn là
bạn của ta. Vì vậy, phải nhận được Bồ đề quyến thuộc, đó là những người bạn
đồng hạnh đồng nguyện là bạn tốt của ta, dù không giữ; nhưng ta muốn giữ thì họ
lại muốn bỏ trốn. Bồ tát đồng hạnh đồng nguyện là ta làm một việc, họ cũng muốn
làm việc đó, thì hợp tác được. Còn không đồng hạnh, không đồng nguyện, không
thể ráp với nhau được, dù hợp tác cũng hư việc; vì đưa vô cái chung, nhưng
người nào cũng muốn đem về riêng. Những người không đồng hạnh nguyện mà chúng
ta cố giữ họ ở lại đạo tràng này, họ làm chúng ta khổ thêm. Chỉ sống với những
người cùng hạnh nguyện thì khổ cũng biến thành vui.
Trên bước đường tu, những gì không phải của ta, ta coi của
ai. Phật dạy nếu hết phước thì tài sản của ta là của năm nhà. Năm nhà là giặc
cướp, bị tịch thu, bị con hư phá của, bị nước cuốn trôi, bị lửa cháy. Nếu là
của năm nhà thì trả lại cho năm nhà, cố giữ cũng không được còn bị chuốc họa
vào thân. Trả rồi, thân tâm chúng ta nhẹ nhàng. Nhiều người nghĩ rằng làm ra
của cải để cho con cháu hưởng, nhưng nó không có phước thì cũng không hưởng
được. Chỉ để cho con cháu phước đức là tốt nhất. Cha mẹ có phước đức vì từng
cứu giúp người, nên con gặp nạn có người giúp lại. Trước khi chết, chúng ta
biến tất cả của cải thành phước đức, thì phước đức đi theo ta sang đời sau.
Nếu không có vô thường biến dịch thay đổi thì đến nay
tôi vẫn là cậu bé nhà quê. Nhờ vô thường biến đổi mà tôi trở thành Hòa thượng
như ngày nay có bạn bè khắp năm châu. Trong vô thường có cái không biến đổi là
chân tình, đạo tình không thay đổi. Tất cả Tăng Ni và Phật tử đều ở trên lộ
trình đạo hạnh từ kiếp xa xưa mà ngày nay chúng ta mới gặp lại nhau cùng tu
hành trong ánh hào quang của Đức Phật vậy.
HT.Thích Trí Quảng