Là hành giả tu tập theo giáo lý Phật đà, có những lúc tâm ta xao lãng trong sự nghiệp tu học của mình mà chạy theo những thú vui trần tục. Có khi là những vọng niệm viễn vong, có khi bị sai xử sâu nặng thành hành động phi pháp. Điều này thì chắc rằng ai cũng vấp phải nhưng có người tỉnh thức trong giây lát, và cũng có người chưa tỉnh trong thời gian dài.
Có một vị sư nói: “một phút không tu một phút chết, một
giây thất niệm một giây vong”. Thật vậy, nếu chúng ta thất niệm trong
giây lát thì chính ngay lúc đó chúng ta đang chết dần chết mòn trong
phiền não nhiễm ô. Sự hiện diện của sanh tử luôn tồn tại trong thất
niệm. Ngược lại, khi thất niệm xuất hiện thì sanh tử hiện diện. Ngay tại
thời điểm này, chúng ta chịu sự tác động rất lớn của Vô thường sanh
diệt.
Ba yếu tố: Khổ, Vô thường và Vô ngã
chính là chân lý của tồn tại của kiếp nhân sinh. Cũng là ba dấu ấn để
khẳng định giáo lý Phật đà. Nếu cho rằng cuộc sống nơi cõi Ta bà này là
Thường (luôn tồn tại), là Lạc (vui thú), là Ngã (tồn tại một chủ thể),
và Tịnh ( là trong sạch, yên ổn) thì chính khi đó ta đã xa rời giáo lý
của Đức Phật là lầm lạc vào giáo lý tà kiến ngoại đạo. Trong đó Vô
thường là nguyên lý của vũ trụ, biểu thị ý của thời gian vô tận, không
gian vô cùng. Nói rõ hơn Vô thường chính là thành, trụ, hoại, không, hay
sanh, lão, bệnh, tử….
Nhờ có vô thường mà chúng sanh mới thấy thế gian này là Khổ não mà phát tâm tu tập trở thành bậc Thánh, Bồ tát mới thành Phật.
Kinh
Bát Đại Nhân Giác, trong điều giác ngộ thứ nhất “… Thế gian Vô thường,
quốc độ nguy thuý, tứ đại khổ không….”. Vô thường bao gồm: Quốc độ vô
thường, hoàn cảnh vô thường, thân vô thường , tâm vô thường.v.v… Vô
thường là một nguyên lý của tự nhiên luôn tồn tại trong Sắc pháp ( sự
vật có hình sắc) nhưng trong tâm pháp thì nó tồn tại và chi phối trong
giai đoạn phàm phu. Khi chứng đạt Thánh Thanh văn (Alahan) trở lên thì
nó có thể được xem là không tồn tại. Đây cũng chính là lý do chúng ta
gọi các Ngài là “sống chết tự tại”.
Trong
cuộc sống này, đối với hạng tục tử phàm phu thì vô thường được xem là ác
quỷ. Nó làm tàn phai sắc đẹp, huỷ hoại tuổi thanh xuân. Mỗi khi có điều
gì không vừa ý ta hay đổ lỗi cho Vô thường; là biểu tượng cho sự chết
chóc.v.v... Còn đối với người giác ngộ thì Vô thường là Thiện hữu tri
thức, là phương tiện để đến cứu cánh quả vị toàn giác. Nhờ có vô thường
mà chúng sanh mới thấy thế gian này là Khổ não mà phát tâm tu tập trở
thành bậc Thánh, Bồ tát mới thành Phật.
Giá
trị của vô thường không những nằm ở cái thấy đổi dời của sự kiện vật
lý. Mà còn chính là thấy được sự đổi dời nơi tâm thức, sự thất niệm
tương tục nơi tâm. Thức tỉnh quay về chánh niệm tỉnh giác, giữ tâm rỗng
lặng một cách tương tục, như dòng sông im điềm chảy. Lâu ngày dài tháng
thì nó trở thành một sức mạnh được gọi dưới cái tên là Định lực. Cổ đức
nói: “Giữ tâm như mèo rình chuột lâu ngày thành một khối, ôm khối ấy vào
tận núi sâu rừng thẫm khi nào ngộ mới thôi…”. Cho thấy rằng, sự tu tập
cũng chẳng có gì là cao siêu kỳ quặc, mà chỉ là sự tỉnh thức kiên trì;
giữ tâm không bị chi phối bởi vô thường sanh diệt. Nó là mấu chốt để
nhận định giữa Thánh nhân và phàm phu. Còn tâm sinh diệt là còn phàm
phu; hết sanh diệt là Thánh nhân.
Vô thường
vẫn là nguyên lý tự nhiên. Thấy được nó mà nỗ lực tu tập thì mới gọi là
người trí; thấy nó mà không tu tập là cái nhìn của kẻ sanh manh. Hành
giả tu tập nên nhận thấy rõ nguyên lý căn bản này. Kẻ trí người ngu chỉ
cách nhau có một niệm mà thôi…
Hân Diệu