Nếu như tại Pháp hội Linh Sơn, Đức Phật Thích Ca
đưa cành hoa lên(1), cả đại chúng trời người đồng mỉm cười như ngài Ca
Diếp, ngộ thật tướng chân tâm, chứng trú cảnh giới Niết-bàn thì có lẽ
Phật cũng không lao nhọc nói ra nhiều pháp môn tu ở thế gian này. Nếu
như mọi người chỉ nghe pháp ngữ của Tổ sư Đạt Ma chứng ngộ như Huệ
Khả(2) thì Ngũ tổ Hoằng Nhẫn sẽ không có chủ trương: Niệm danh hiệu
Phật, tịnh hóa tâm thức(3) trong thiền phái Đông Sơn.
Từ thực tế đó
chúng ta cần hiểu rằng, pháp môn tu là phương tiện giúp mọi người giác ngộ chân
lý. Đức Phật như vị đại lương y tài tình, tùy bệnh mà cho thuốc pháp chữa trị
phiền não chúng sinh. Pháp môn Niệm Phật là một trong những loại thuốc pháp
nhiệm mầu đó, một phương tiện vô cùng trí tuệ giúp chúng sanh mau chóng thoát
khỏi luân hồi. Giáo lý ấy dạy rằng, mọi người gieo trồng phước đức và trí tuệ
trong đời sống này để làm hành trang vãng sanh và giác ngộ. Cầu vãng sanh không
phải chạy trốn thế gian, mà ngược lại phải tịnh hóa nhân gian, tích cực phổ cập
đạo đức nhân sinh trong xã hội. Bởi thế, nhận thức và vận dụng giáo lý Tịnh độ đúng
đắn là điều chúng ta cần quan tâm.
Trước đây,
những lời kinh Phật dạy hay âm thanh câu niệm Phật chỉ nằm gói gọn trong cửa
thiền trầm lặng. Phần nhiều người dân nghe được kinh Phật và thấy được hình ảnh
chư Tăng vào những khi gia đình hữu sự đám tang hay là các buổi lễ khác. Có một
số tín đồ, dù có tinh thần kính trọng Tam bảo nhưng không hiểu trọn vẹn giá trị
lời Phật dạy là giúp cho con người gột rửa phiền não, tịnh hóa tâm thức qua
việc tu niệm hàng ngày để thăng hoa đời sống tâm linh chính mình, hướng đến
cảnh giới an lạc giải thoát.
Trong giai
đoạn Phật giáo phát triển hiện nay, thông tin Phật pháp được phổ cập, kinh điển
phiên dịch và ấn hành khắp nơi, giáo pháp Phật dạy mới bắt đầu thấm nhuần trong
tư tưởng quần chúng. Các bài thi kệ Phật giáo, câu niệm Phật cũng được phổ
nhạc. Quần chúng cảm thấy gần gũi với Tam bảo, dễ dàng đón nhận lời Phật dạy.
Trên thực tế đời sống hiện đại quá bận rộn, nếu không có sự nhận thức giáo lý
tường tận thì sự tiếp cận thông tin Phật pháp một cách máy móc, rập khuôn dễ
rơi vào hình thức hóa trong biểu hiện tu học. Do đó, điều quan trọng chúng ta
cần nhận thức, Tịnh độ là pháp môn Đại thừa. Tư tưởng Bồ-tát hạnh và Bồ-đề tâm
là bản chất của giáo lý Tịnh độ giúp cải thiện sinh mệnh con người, góp phần
lợi ích cho phát triển xã hội ngày càng văn minh và thái bình.
Kinh điển
liên quan giáo lý Tịnh độ được phổ biến xưa nay là Tam kinh nhất luận4,
Tịnh độ ngũ kinh5 và các luận sớ của các Tổ sư. Theo Trí Giả đại sư
phân định có Ngũ thời
thuyết giáo6 thì tư tưởng Tịnh độ xuất
hiện rất sớm trong kinh Hoa nghiêm. Kinh này thuyết minh rất rõ về thế
giới quan Phật giáo, có vô số thế giới, các thế giới tương dung tương nhiếp lẫn
nhau, pháp giới tính viên dung vô ngại. Trong đó, hạnh nguyện Bồ-tát vô cùng
rộng lớn, tiêu biểu nhất là mười hạnh nguyện Phổ Hiền, chung cuộc tán thán pháp
môn Niệm Phật và nguyện vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc. Thời giáo sau
cùng, Phật thuyết kinh Pháp hoa, tư tưởng Bồ-tát xuất hiện với lý tưởng
tích cực, cứu độ chúng sinh và hộ trì Chánh pháp. Thời giáo này như là xác
chứng Tây phương Cực lạc là cảnh giới chân thật mà Phật đã thuyết trong thời Hoa
nghiêm. Kinh Pháp hoa mục đích là khai quyền hiển thật7, Tam thừa giáo quy về nhất Phật thừa. Tu học
theo tư tưởng của kinh Pháp hoa là hành Bồ-tát đạo, để hướng đến quả vị
Phật. Ngoài ra, các luận sư, chư vị Tổ sư giảng nghĩa kinh luận đều đứng trên
lập trường tư tưởng Đại thừa để truyền
bá giáo lý Tịnh độ. Tịnh độ chủ trương niệm Phật để thành Phật; niệm Phật là
nhân, thành Phật là quả.
Thiết nghĩ,
từ nhận thức đúng mới thực hành đúng, có phương pháp cụ thể mới áp dụng rộng
rãi trong quần chúng. Phật dạy: Muốn sanh về cõi ấy, phải tu ba thứ phước: 1.
Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, giữ lòng từ bi không giết hại, tu mười
nghiệp lành. 2. Thọ trì Tam quy, giữ vẹn các giới, đừng phạm oai nghi. 3. Phát
lòng bồ-đề, tin sâu lý nhân quả, đọc tụng kinh Đại thừa, khuyến tấn người tu
hành. Ba điều như thế, gọi là tịnh nghiệp.8
Nếu người tu niệm Phật, tư duy và thực hành lời dạy đó, thì chắc chắn không bị
sai lầm. Khuyến phát người tu niệm đúng theo tông chỉ Tịnh độ là phải phù hợp
với giáo lý Đại thừa.
Luận về nhân
sanh và thế giới không thể xa rời nguyên lý: y báo và chánh báo. Chánh báo và y
báo là gì? Theo Tam tạng pháp số định nghĩa: “Chánh báo cũng gọi là kết
quả, tức là thân ngũ uẩn này, chúng sanh đều tạo nghiệp thiện ác mà cảm quả báo
thân này, thọ nhận quả báo ấy nên gọi là chánh báo”; “Y báo gọi là y quả, tức
là thế giới và hoàn cảnh, tất cả chúng sanh đều từ quả báo có thân thể, y vào
hoàn cảnh mà an trụ, gọi là y báo.”9 Suy
luận ra con người tái sinh vào các hoàn cảnh sống trong Tam giới và Lục đạo đều
do tâm tạo nghiệp thiện ác sai biệt. Tâm Phật thanh tịnh sáng suốt, tự tại giải
thoát nên an trú trong các cõi tịnh độ. Từ nguyên lý này mà nhận thức rằng, do
Phật A Di Đà phát đại nguyện thanh tịnh mà thiết lập thế giới Tây phương Cực
lạc là một hiện thực.
Chuyên chú
niệm Phật thì tâm tịnh, tương ưng với tâm Phật, nên được sanh vào cảnh Tịnh độ.
Tất cả việc tốt thể hiện từ cá nhân, gia
đình và xã hội đều hồi hướng vãng sanh Tây phương. Giáo lý Tịnh độ giúp chúng
ta kiến tạo đời sống đạo đức trong mọi hoàn cảnh. Cho nên muốn cho đời bớt khổ,
muốn cho xã hội nhân loại thái bình, thịnh vượng thì nên phát huy giá trị đạo
đức nhân sinh. Mọi người có tâm niệm
thanh tịnh thì cuộc đời tươi sáng và hoàn cảnh xã hội cũng thay đổi, mọi thành
quả đạo đức tại thế gian là nhân lành cho kết quả vãng sanh cõi Phật. Phật pháp
tại thế gian, không xa rời thế gian mà cầu giác ngộ là ý nghĩa đó.
Nếu như người
tu Thiền quán, thì phải dụng công tu chánh niệm
thông qua việc theo dõi hơi thở, theo dõi đề mục thiền quán để đạt tuệ
giác ngộ; người tu theo khán thoại đầu thì phải chuyên tâm vào một công án
thiền để phát khởi nghi tình, dẹp bỏ vọng thức chứng đắc thật tướng; còn tu
Tịnh độ thì chuyên tâm niệm Phật đạt nhất tâm bất loạn để được vãng sanh. Cổ
đức có dạy: “Ái bất trọng bất sanh Ta bà, niệm bất nhất bất sanh Tịnh độ”10, nghĩa là tâm không tham ái thì không sanh
ra trên cõi đời này, niệm không chuyên nhất thì không được sanh vào thế giới
Tịnh độ. Cho nên Tịnh Độ tông khuyên mọi người xả ly tham sân si, nhất tâm niệm
Phật giải thoát luân hồi sanh tử.
Y theo kinh
luận nhận xét thì pháp tu Tịnh độ như thả diều theo gió, chèo thuyền xuôi theo
dòng nước. Niệm Phật nhờ vào đại nguyện tiếp độ của Phật A Di Đà và mười phương
chư Phật hộ niệm được vãng sanh thế giới Cực lạc; từ đó nương nhờ vào hoàn cảnh
tốt, không bị đọa lạc, tu tập cho đến chứng quả vị giác ngộ. Cho nên tu tập mà
không xa rời hiện thực cuộc đời này. Niệm Phật chính là chánh hạnh, tu tập các
việc lành vun bồi phước đức lợi mình lợi người đó trợ hạnh. Trợ hạnh và chánh
hạnh là hành trang sanh Tịnh độ. Ý nghĩa: “Không thể lấy chút ít thiện căn,
phước đức, nhân duyên sanh về Cực lạc” trong kinh A Di Đà, đó là điều
kiện cần thiết hành giả tu tất cả việc lành trong đời, hồi hướng vãng sanh Cực
lạc. Chính ngay trong hoàn cảnh sống con
người và nhân loại trong thế giới vô thường này là đạo tràng, là ruộng phước
đức cho người tu học phụng sự để thành tựu lý tưởng giải thoát.
Tịnh độ là
pháp tu đặc biệt, một phương tiện chuyển nghiệp đặc biệt, một đường tắt đặc
biệt, nếu không am tường sự vận hành tâm, cảnh và nguyện lực của Phật thì khó
tin hiểu. Vì rằng, Tịnh độ có phương cách phục nghiệp chứ không đoạn nghiệp như
các pháp tu khác. Phục nghiệp là chỉ
nhất tâm niệm Phật, chủng tử phiền não không có duyên sinh khởi. Thông qua tu
tập Giới-Định-Tuệ và nhất tâm tu niệm Phật nên phiền não không có duyên phát
khởi quả báo khổ. Tuy chưa đoạn tận phiền não mà có phần vãng sanh là do thành
tựu Tín, Nguyện và Hạnh, do nguyện lực Phật A Di Đà từ bi tiếp độ.
Như nước trăm
sông chảy về biển chỉ thuần một vị mặn, bản chất Phật pháp qua phương tiện tu
tập, phổ cập với mọi căn cơ trình độ, chỉ một mục đích hướng con người đạt đến
giải thoát sanh tử khổ đau. Tu học bất cứ pháp môn nào cũng chuyên tâm thọ trì
mới thành tựu, như một đôi chân không thể bước hai thuyền mà qua sông. Nếu như
chúng ta đến với đạo Phật như cưỡi ngựa xem hoa, thì khó có được sự lợi lạc
thiết thực. Tại đây xin nêu ra lời khai thị của Tỉnh Am đại sư: “Bất dụng tam
kiếp tu phước huệ, đản tương lục tự xuất càn khôn”11. Có nghĩa là không trải qua ba đại kiếp tu
phước huệ, chỉ nhất tâm niệm Nam
mô A Di Đà Phật thoát ba cõi luân hồi. Vì vậy, mọi người nên suy xét năng lực
của bản thân, để chọn pháp môn tu thích hợp, như thế mới là người có chánh kiến
nương tựa giáo pháp của Phật.
Thích Đức Trí
Chú thích:
1
Niêm hoa vi tiếu, công án đầu tiên của Thiền tông, Phật học đại từ điển.
2
Huệ Khả an tâm, Tổ thứ hai Thiền tông, ngộ đạo từ pháp ngữ Tổ sư Đạt ma, trích
từ Thiền tông luận đàm.
3
Niệm Phật danh, linh tịnh tâm, Hoàng Mai Đông Sơn pháp môn, trích từ Trung
Hoa bách khoa toàn thư.
4
Tam kinh: Kinh Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng
Thọ; Nhất luận là Vãng sanh Tịnh độ luận.
5
Ngũ kinh: Tam kinh và thêm hai phẩm kinh
khác trong kinh Hoa nghiêm và kinh Thủ lăng nghiêm.
6 Thời Hoa nghiêm, A-hàm, Phương đẳng, Bát nhã và thời
Pháp hoa - Niết-bàn.
7
Quyền là pháp phương tiện, thật là chân lý tuyệt đối.
8
Kinh Quán Vô Lượng Thọ, đời Lưu Tống, ngài Cương-Lương Gia-Xá dịch Việt dịch: Hòa thượng Thích Thiền Tâm
9
Trích từ Tam Tạng pháp số, bản Hán.
10
Trích từ Tịnh độ pháp ngữ, bản Hán.
11
Trích từ Tỉnh Am đại sư khuyên tu Tịnh độ thi, bản Hán